十年飄轉嘆蓬萍
歸思搖搖日似旌
幾托夢魂尋故里
空將血淚洗先塋
兵餘斤斧嗟難禁
客裡江山只此情
鬱鬱寸懷無奈處
船窗推枕到天明
Thập niên phiêu chuyển thán bồng bình
Quy tứ dao dao nhật tự tinh
Kỉ thác mộng hồn tầm cố lí
Không tương huyết lệ tẩy tiên oanh
Binh dư cân phủ ta nan cấm
Khách lí giang sơn chỉ thử tình
Uất uất thốn hoài vô nại xử
Thuyền song thôi chẩm đáo thiên minh
Dịch nghĩa:
Trong thuyền về Côn Sơn cảm tác
Mười năm phiêu giạt than thân bồng bèo
Lòng muốn về ngày ngày lay động như đuôi cờ
Bao lần nhờ chiêm bao đi tìm làng cũ
Luống đem nước mắt lẫn máu rửa mồ tổ tiên
Sau cơn binh lửa, thương ơi, nạn búa rìu khó ngăn
Non sông đất khách chỉ đeo đẳng mối tình này
Tấc lòng bùi ngùi chẳng biết làm sao
Nằm ở cửa sổ thuyền trăn trở gối đến sáng
(Bản dịch xuôi trong: Nguyễn Trãi, Sinh thức và Hành động, trang 172, Võ Văn Ái, Quê Mẹ xuất bản, Paris 1981)
Dịch thơ:
Trong thuyền về Côn Sơn cảm tác
Mười năm phiêu giạt bồng bèo,
Mong về phất phất cờ treo gió lùa.
Đi tìm làng cũ trong mơ,
Luống đem nước mắt rửa mồ tổ tiên.
Sau cơn binh lửa muộn phiền,
Non sông đất khách một niềm khôn nguôi.
Tấc lòng cố quốc ngùi ngùi,
Cửa thuyền trở gối sáng trời không hay.
(Đặng Thế Kiệt dịch)
edition 2022-05-05
No comments:
Post a Comment